Leave Your Message

Báo cáo hàng tuần về chỉ số giá thép Trung Quốc

2024-04-23 09:01:00

Trong tuần từ 15/4 đến 19/4, chỉ số giá thép trong nước tăng trở lại, chỉ số giá sản phẩm dài và chỉ số giá thép tấm đều tăng trở lại.

Tuần đó, Chỉ số giá thép Trung Quốc (CSPI) là 106,61 điểm, tăng 1,51 điểm, tương đương 1,44% so với tuần trước; tăng 1,34 điểm, tương đương 1,27% so với cuối tháng trước; giảm 6,29 điểm, tương đương 5,57% so với cuối năm trước; so với cùng kỳ năm trước Nó giảm 8,46 điểm, tương đương 7,35%. Trong đó, chỉ số giá sản phẩm dài là 109,11 điểm, tăng 2,62 điểm so với tuần trước, tăng 2,46%; tăng 3,07 điểm, tương đương 2,90% so với cuối tháng trước; giảm 7,00 điểm, tương ứng 6,03% so với cuối năm ngoái; giảm 9,31 điểm so với cùng kỳ năm ngoái, mức giảm là 7,86%. Chỉ số giá thép tấm là 104,88 điểm, tăng 0,91 điểm hay 0,88% so với tuần trước; tăng 0,37 điểm hay 0,35% so với cuối tháng trước; giảm 6,92 điểm hay 6,19% so với cuối năm trước; giảm 11,57 điểm so với cùng kỳ năm ngoái hoặc giảm 9,94 %.

Xét theo khu vực, chỉ số giá thép tại sáu khu vực chính trên cả nước tăng so với tuần trước, trong đó mức tăng lớn nhất xảy ra ở Đông Trung Quốc và mức tăng nhỏ nhất xảy ra ở Tây Bắc Trung Quốc. Cụ thể, chỉ số giá thép tại Bắc Trung Quốc là 105,94 điểm, tăng so với tuần trước là 1,68 điểm, tương đương 1,61%; tăng 1,90 điểm, tương đương 1,83%, so với cuối tháng trước. Chỉ số giá thép tại Đông Bắc Trung Quốc là 105,72 điểm, tăng 1,55 điểm, tương đương 1,49% so với tuần trước; tăng 1,30 điểm, tương đương 1,24%, so với cuối tháng trước. Chỉ số giá thép tại Đông Trung Quốc là 107,45 điểm, tăng 1,76 điểm so với tuần trước, tăng 1,66%; tăng 1,70 điểm, tương đương tăng 1,61%, so với cuối tháng trước. Chỉ số giá thép tại miền Trung và miền Nam Trung Quốc là 108,70 điểm, tăng 1,64 điểm, tương đương 1,53% so với tuần trước; tăng 1,34 điểm, tương đương 1,25%, so với cuối tháng trước. Chỉ số giá thép tại Tây Nam Trung Quốc là 105,98 điểm, tăng 1,13 điểm, tương đương 1,08% so với tuần trước; tăng 0,60 điểm, tương đương 0,57%, so với cuối tháng trước. Chỉ số giá thép tại Tây Bắc Trung Quốc là 107,11 điểm, tăng 0,77 điểm, tương đương 0,72% so với tuần trước; tăng 0,06 điểm, tương đương 0,06%, so với cuối tháng trước.

Xét về chủng loại, so với cuối tháng trước, giá 8 mặt hàng thép chủ lực đều tăng hoặc giảm. Trong số đó, giá thép dây cao và thép cây đều tăng, trong khi giá các loại khác lại giảm. Cụ thể, giá dây cao đường kính 6 mm là 3.933 NDT/tấn, tăng 143 NDT/tấn so với cuối tháng trước, tăng 3,77%; giá thép cây có đường kính 16 mm là 3.668 nhân dân tệ/tấn, tăng 150 nhân dân tệ/tấn so với cuối tháng trước. , tăng 4,26%; giá thép góc 5# là 3899 nhân dân tệ/tấn, tăng 15 nhân dân tệ/tấn so với cuối tháng trước, tăng 0,39%; giá tấm vừa và dày 20 mm là 3898 nhân dân tệ/tấn, giảm 21 nhân dân tệ/tấn so với cuối tháng trước, giảm 0,54%; giá cuộn cán nóng 3 mm là 3926 nhân dân tệ/tấn, tăng 45 nhân dân tệ/tấn so với cuối tháng trước, tăng 1,16%; giá tấm cán nguội 1mm là 4488 nhân dân tệ/tấn, giảm 20% so với cuối tháng trước. nhân dân tệ/tấn, giảm 0,44%; giá tôn mạ kẽm 1mm là 4.955 NDT/tấn, giảm 21 NDT/tấn so với cuối tháng trước, giảm 0,42%; Giá ống liền mạch cán nóng có đường kính 219 mm × 10 mm là 4.776 nhân dân tệ/tấn, tăng 30 nhân dân tệ/tấn so với cuối tháng trước, tăng 0,63%.

Về mặt chi phí, số liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy, trong tháng 3, giá quặng sắt nhập khẩu trung bình là 125,96 USD/tấn, giảm 5,09 USD/tấn, tương đương 5,09% so với tháng trước; tăng 2,70 USD/tấn so với giá bình quân tháng 12/2023. tấn, tăng 2,19%; cao hơn cùng kỳ năm ngoái 8,26 USD/tấn, tăng 7,02%. Trong tuần từ 15/4 đến 19/4, giá bột sắt mịn tại thị trường trong nước là 928 nhân dân tệ/tấn, giảm 33 nhân dân tệ/tấn so với cuối tháng trước, giảm 3,43%; giảm 182 nhân dân tệ/tấn so với cuối năm ngoái, giảm 16,40% %; giảm 48 nhân dân tệ/tấn so với cùng kỳ năm ngoái, giảm 4,92%. Giá than cốc (loại 10) là 1.903 nhân dân tệ/tấn, giảm 25 nhân dân tệ/tấn so với cuối tháng trước, tương đương 1,30%; giảm 690 nhân dân tệ/tấn so với cuối năm ngoái, tương đương 26,61%; giảm 215 nhân dân tệ/tấn so với cùng kỳ năm ngoái, tương đương giảm 26,61% so với cuối năm ngoái; 10,15%. Giá than cốc ở mức 1.754 NDT/tấn, giảm 38 NDT/tấn hay 2,12% so với cuối tháng trước; giảm 700 nhân dân tệ/tấn hay 28,52% so với cuối năm ngoái; giảm so với cùng kỳ năm trước là 682 nhân dân tệ/tấn hay 28,00%. Giá thép phế là 2.802 nhân dân tệ/tấn, tăng 52 nhân dân tệ/tấn so với cuối tháng trước, tương đương 1,89%; giảm 187 nhân dân tệ/tấn, tương đương 6,26% so với cuối năm ngoái; giảm so với cùng kỳ năm ngoái là 354 nhân dân tệ/tấn, tương đương 11,22%.

Nhìn từ thị trường quốc tế, tháng 3 năm 2024, Chỉ số giá thép quốc tế CRU là 210,2 điểm, giảm 12,5 điểm so với tháng trước, giảm 5,6%; giảm 8,5 điểm, giảm 3,9% so với cuối năm trước; so cùng kỳ giảm 32,7 điểm, giảm 13,5%. Trong đó, chỉ số giá sản phẩm dài CRU là 217,4 điểm, không thay đổi so với tháng trước; so cùng kỳ giảm 27,1 điểm, giảm 11,1%. Chỉ số giá tấm CRU là 206,6 điểm, giảm 18,7 điểm so với tháng trước, giảm 8,3%; so cùng kỳ giảm 35,6 điểm, giảm 14,7%. Xét theo khu vực, tháng 3 năm 2024, chỉ số giá tại Bắc Mỹ là 241,2 điểm, giảm 25,4 điểm so với tháng trước, tương đương giảm 9,5%; chỉ số giá tại châu Âu là 234,2 điểm, giảm 12,0 điểm so với tháng trước, tương ứng giảm 4,9%; chỉ số giá tại khu vực châu Á là 234,2 điểm, giảm 12,0 điểm so với tháng trước, giảm 4,9%; Đó là 178,7 điểm, giảm 5,2 điểm so với tháng trước, tương đương giảm 2,8%.

Tuần đó, giá thép trong nước tiếp tục tăng trở lại, tồn kho thép xã hội và tồn kho doanh nghiệp tiếp tục giảm so với tháng trước. Trên thực tế, kể từ Lễ hội Thanh Minh, mức tiêu thụ thép đã bắt đầu dần phục hồi. Đặc biệt trong tháng 3, số liệu từ Cục Thống kê Quốc gia cho thấy sản lượng thép thô giảm 7,8%, mức giảm tương đối lớn, mâu thuẫn cung cầu đã giảm bớt. Sau thông tin công tác kiểm soát sản lượng thép thô quốc gia sẽ tiếp tục được thực hiện trong năm nay, kỳ vọng của thị trường đã được củng cố, đây cũng là yếu tố chính khiến giá thép phục hồi. Trong giai đoạn sau, với sự phục hồi của nhu cầu thép, thị trường thép sẽ tiếp tục biến động và hoạt động mạnh mẽ.